xsht .............
Tổng số bài gửi : 223 Điểm : 736 Được cảm ơn : 171 Tham gia ngày : 2010-12-13 Thực hiện nội quy :
| Subject: Chuyên đề ôn thi: Văn Nghị luận 19/7/2011, 8:58 pm | #1 |
| Nghị luận xã hội và nghị luận văn học
1. Nghị luận là gì? - Nghị luận: bàn bạc cho ra phải trái (Từ điển Tiếng Việt – Văn Tân) - Nghị luận: bàn bạc (Từ điển từ Hán Việt – Phan Văn Các) - Nghị luận: bàn và đánh giá cho thật rõ về một vấn đề nào đó (Từ điển Tiếng Việt - Hoàng Phê). Vậy, nghị luận là bàn bạc cho ra phải trái, đánh giá cho thật rõ đúng sai một vấn đề nào đó. Ví dụ: a. Bình luận hai câu thơ sau đây của Nguyễn Công Trứ: “Đã mang tiếng ở trong trời đất, Phải có danh gì với núi sông”. b. Nêu ý kiến của em về câu nói của Ban-dắc: “Lịch sự và khiêm tốn chứng tỏ con người có văn hoá”. c. Trong bài thơ “Tẩu lộ” (Đi đường), Bác Hồ viết: “Tẩu lộ tài tri tẩu lộ nan” (Đi đường mới biết đường đi khó) Em hãy lấy một số dẫn chứng thơ trong bài “Ngục trung nhật kí” của Bác Hồ để làm sáng tỏ ý thơ trên. 2. Văn nghị luận là gì ? - Hịch, cáo, chiếu, biểu,... của người xưa để lại đều là những áng văn nghị luận. “Hịch tướng sĩ” của Trần Quốc Tuấn, “Bình Ngô đại cáo” của Nguyễn Trãi, “Chiếu dời đô” của vua Lý Thái Tổ, “Biểu tạ của Giản nghị đại phu kiêm Tri tam quân sự” (Nguyễn Trãi) dâng lên vua Lê Thái Tông,... đều là văn nghị luận viết theo quy cách riêng, thi pháp riêng của cổ văn. Cuối thế kỉ XIX, đầu thế kỉ XX, bản điều trần “Xin lập khoa luật” (1867) của Nguyễn Trường Tộ, “Hoà lệ cống ngôn” (Gửi lời nói hoà cùng nước mắt) của Phan Bội Châu, bài “Chánh học cùng tà thuyết” của Ngô Đức Kế, bài “Chánh học cùng tà thuyết có phải là vấn đề quan hệ chung không?” của Huỳnh Thúc Kháng,... cũng là văn nghị luận. “Tuyên ngôn Độc lập”, “Lời kêu gọi toàn quốc kháng chiến”, “Không có gì quý hơn độc lập tự do” của Hồ Chí Minh là văn nghị luận. “Mấy ý nghĩ về thơ” của Nguyễn Đình Thi, “Con đường trở thành kẻ sĩ hiện đại” của Nguyễn Khắc Viện, “Tư duy hệ thống – nguồn sức sống mới của đổi mới tư duy” của Phan Đình Diệu, “Nhìn về vốn văn hoá dân tộc” của Trần Đình Hượu,... đều là văn nghị luận. Có thể nói, văn nghị luận là loại văn xuôi dùng lí lẽ, lập luận, dẫn chứng để bàn bạc và đánh giá một vấn đề nào đó, thể hiện cách hiểu và bày tỏ quan điểm của mình. 3. Phân loại Văn nghị luận gồm có nghị luận xã hội và nghị luận văn học - Nghị luận xã hội là những bài văn bàn về các vấn đề xã hội, chính trị, lịch sử, văn hoá, đạo đức, thiên nhiên, môi trường,v.v... Ví dụ, bàn về vẻ đẹp thanh lịch của người Hà Nội; nêu lên suy nghĩ về việc xây dựng, bảo vệ môi trường xanh, sạch, đẹp; trao đổi về phương pháp tự học, tự đọc,... - Nghị luận văn học là những bài văn bàn về các vấn đề văn chương - nghệ thuật như phân tích, cảm thụ một tác phẩm thơ văn, bình luận về một vấn đề lí luận văn học, một nhận định văn học sử, giới thiệu một tác giả hoặc một tác phẩm văn chương,v.v... Ví dụ, bình giảng bài thơ “Sóng” của Xuân Quỳnh; phân tích nhân vật chị Hoài trong “Mùa lá rụng trong vườn” (đoạn trích) của Ma Văn Kháng; giới thiệu một vài nét về tiểu sử, tác phẩm và phong cách nghệ thuật của Nguyễn Tuân,v… 4. Các dạng bài, kiểu bài văn nghị luận Có thể tạm chia các dạng bài, kiểu bài văn nghị luận: - Chứng minh một vấn đề. Ví dụ, chứng minh quê em có nhiều đổi mới; chứng minh quân đội ta rất anh hùng; những đức tính cần có của một thanh niên học sinh; trăng trong thơ Hồ Chí Minh, v.v... - Giải thích một vấn đề Ví dụ, giải thích câu tục ngữ “Thương người như thể thương thân”; thế nào là tư duy hệ thống?; nên hiểu như thế nào cho đúng hai câu tục ngữ: “Học thầy không tày học bạn” và “Không thầy đố mày làm nên”,v.v... - Bình luận một vấn đề - Ví dụ, bình luận câu tục ngữ “đi một ngày đàng học một sàng khôn”; quan niệm của em về một bài thơ hay; suy nghĩ của em về thói đua đòi ăn chơi trong một số thanh niên học sinh; bình luận câu: “Bí quyết của sự trẻ mãi là hãy học lấy mỗi ngày một điều gì”, v.v... - Cảm nhận, cảm thụ, phân tích, bình gảng Ví dụ, cảm nhận về bài thơ “Ngắm trăng” của Hồ Chí Minh; cảm thụ của em về hình tượng “sóng” trong bài thơ “Sóng” của Xuân Quỳnh; phân tích nhân vật ông Tám trong truyện “Đất” của Anh Đức; bình giảng đoạn thơ nói về bức tranh tứ bình trong bài thơ “Việt Bắc” của Tố Hữu, phân tích bài thơ “Tây Tiến” của Quang Dũng, v.v... - Nghị luận hỗn hợp Những bài văn THPT thường là dạng bài, kiểu bài nghị luận hỗn hợp. Có lúc đề bài chỉ rõ giải thích và chứng minh, giải thích và bình luận, có lúc đề bài chỉ nêu vấn đề để học sinh tự tìm hiểu, tự suy luận. Ví dụ: + Giải thích và bình luận câu: “Học hành là sự mở đường đi tới tương lai”. + Giải thích và chứng minh câu tục ngữ “Có chí thì nên”. + Đề bài: Tiền tài và hạnh phúc thuộc dạng bài, kiểu bài gì? - Đó là bài văn nghị luận hỗn hợp; người viết phải giải thích, chứng minh, bình luận (Đọc bài văn số 1 trang...) 5. Điều kiện cần và đủ để làm văn nghị luận Muốn làm một bài văn nghị luận, học sinh cần phải có những điều kiện cần và đủ sau đây: - Phải có lí luận, nghĩa là có lí lẽ và biết lập luận. Lí lẽ phải sắc bén, lập luận phải chặt chẽ. Không phải lí luận cùn và cách nói rời rạc, luẩn quẩn. - Phải có kiến thức: kiến thức phong phú, cụ thể về cuộc sống, về xã hội, về lịch sử, kiến thức văn học,... không thể nói chung chung, mô tê răng rứa, mà được!... - Phải có quan điểm, lập trường đúng đắn, tiến bộ. Sự sai sót về tư tưởng, tình cảm sẽ“giết chết” bài văn! - Phải có kĩ năng – thao tác như phát hiện đề để làm cho trúng, biết bố cục chặt chẽ, có kĩ năng, thao tác thuần thục giải thích, chứng minh, bình luận, phân tích, bình giảng, biết trình bày lí lẽ theo diễn dịch, quy nạp, móc xích, tam đoạn luận, tổng-phân-hợp,v... Còn phải biết cách trình bày và phân tích các dẫn chứng. - Câu văn, lời văn, cách diễn đạt, cách dựng đoạn văn, cách biểu cảm sao cho phù hợp với sắc thái mỗi loại bài văn nghị luận xã hội và nghị luận văn học. Tóm lại, “có bột mới gột nên hồ”, có nhiều tền mới vào được siêu thị để mua hàng; làm văn nghị luận xã hội hay nghị luận văn học cũng phải có kiến thức, quan điểm và kĩ năng. BÀI ĐỌC THAM KHẢO Bài viết số 1 (có 4 đề) (Nghị luận xã hội – Bài làm ở nhà) Đề 2 Phê phán thái độ thờ ơ, ghẻ lạnh đối với con người cũng quan trọng và cần thiết như ca ngợi lòng vị tha, tình đoàn kết. Anh (chị) suy nghĩ như thế nào về ý kiến trên? Bài làm Trong việc phê phán những thói hư tật xấu, những tư tưởng lạc hậu để xây dựng con người mới, nếp sống văn hoá mới, nhiều người thường nhắc đến câu nói sau đây: “Phê phán thái độ thờ ơ, ghẻ lạnh đối với con người cũng quan trọng và cần thiết như ca ngợi lòng vị tha, tình đoàn kết”. Trước hết, phải hiểu nghĩa các từ ngữ: thờ ơ, ghẻ lạnh, lòng vị tha, tình đoàn kết là thế nào. Cuốn “Từ điển tiếng Việt” in năm 2008, Hoàng Phê chủ biên đã giải nghĩa như sau: Thờ ơ: tỏ ra lạnh nhạt, không hề quan tâm, để ý tới, không hề có chút tình cảm gì. Ghẻ lạnh: tỏ ra lạnh nhạt đối với người lẽ ra là thân thiết, gần gũi. Vị tha: có tinh thần chăm lo đến lợi ích của người khác mà hi sinh lợi ích của cá nhân mình. Đoàn kết: kết thành một khối thống nhất, cùng hoạt động vì một mục đích chung. Qua đó, ta hiểu thái độ thờ ơ, ghẻ lạnh là tính xấu; người sống thờ ơ, ghẻ lạnh là người không tốt, là kẻ vô cảm, vô tình với đồng loại. Lòng vị tha, tình đoàn kết là tính tốt; người giàu lòng vị tha và có tình đoàn kết là người tốt, rất tốt. Câu nói trên đây chỉ ra mối quan hệ và tầm quan trọng giữa việc phê phán thái độ thờ ơ, ghẻ lạnh đối với con người và sự ca ngợi lòng vị tha, tình đoàn kết. Con người có nhân hậu, sống trong tình người mới có lòng vị tha, tình đoàn kết, mới biết “thương người như thể thương thân”. Nhân dân ta giàu lòng vị tha và tình đoàn kết nên tâm hồn Việt Nam rất đẹp, sức mạnh Việt Nam vô địch, có thể chiến thắng thiên tai, địch hoạ, đánh đuổi thù trong, giặc ngoài. Chiến thắng thực dân Pháp, đế quốc Mỹ là nhờ tinh thành đại đoàn kết của toàn Đảng, toàn dân ta. Xoá đói giảm nghèo, giúp đỡ các nạn nhân chất độc da cam, cứu giúp đồng bào vùng bị lũ lụt bão tố, quan tâm săn sóc các em nhỏ mồ côi, những học sinh nghèo,... làm tốt được các việc đó là do sức mạnh của lòng vị tha, tình đoàn kết của đồng bào, chiến sĩ, của hơn hai triệu Việt kiều đang sinh sống, làm ăn ở nước ngoài. Chính vì có lòng vị tha, tình đoàn kết mà nhân dân ta hiểu một cách sâu sắc: chia rẽ là chết; thờ ơ, ghẻ lạnh với bà con, với đồng loại là vô tình, vô tâm, bạc bẽo, nhẫn tâm. Trong công cuộc xây dựng con người mới, nếp sống mới, việc ca ngợi lòng vị tha, tình đoàn kết là quan trọng, nhưng quan trọng hơn là phê phán thái độ thờ ơ, lạnh nhạt đối với con người. Sống giữa người thân, sống giữa tập thể, giữa cộng đồng mà thờ ơ, ghẻ lạnh đối với mọi người thì kẻ ấy thật đáng chê. Chỉ biết bản thân mình, chẳng hề quan tâm đến ai. Một tiếng kêu rên của người bất hạnh, giọt nước mắt của người khốn khổ cơ hàn, đối với họ cũng chẳng quan tâm. Vì kẻ sống thờ ơ , ghẻ lạnh, trái tim đã bị đóng băng, tâm hồn đã bị khô héo, sống không chút tình người. Đáng thương hại thay, những kẻ thờ ơ, ghẻ lạnh là những Bê-li-cốp, loại người trong bao mà nhà văn Nga Sê-khốp đã nói đến. Các câu tục ngữ: “Cháy nhà hàng xóm bình chân như vại”, “Đèn nhà ai rạng nhà ấy” đã nói lên bản chất loại người có thái độ thờ ơ, ghẻ lạnh đối với mọi người. Loại người này đã tự tách rời với mọi người xung quanh, sống cô đơn, khép kín, mũ ni che tai! Phê phán thái độ thờ ơ, ghẻ lạnh đối với con người là để xây dựng tính tập thể, tính cộng đồng, lòng vị tha, tính đoàn kết. Là để làm cho con người gần người hơn. Là để xây dựng tình tương thân tương ái, là để xây dựng con người mới, xã hội mới, nếp văn hoá mới. Có gì hạnh phúc hơn khi được sống trong tình thương; tình thương của gia đình, của bạn bè, của đồng bào, đồng chí. Tuổi trẻ bước vào đời sẽ tìm thấy sức mạnh và hạnh phúc trong tình nhân ái, lòng vị tha, tình đoàn kết của cộng đồng. Hơn bao giờ hết, ta càng thấm thía ý kiến: “Phê phán thái độ thờ ơ, ghẻ lạnh đối với con người cũng quan trọng và cần thiết như ca ngợi lòng vị tha, tình đoàn kết”. Đề 3 Phân tích và làm sáng tỏ ý nghĩa câu nói: “Đường đi khó không khó vì ngăn sông cách núi mà khó vì lòng người ngại núi e sông”. (Nguyễn Bá Học) Bài làm Nguyễn Bá Học (1957-1921) là nhà giáo từng viết văn viết báo khá nổi tiếng trong hai thập niên đầu thế kỉ XX. Trong bài báo “Lời khuyên học trò”, ông có viết: “Đường đi khó không khó vì ngăn sông cách núi mà khó vì lòng người ngại núi e sông”. Hình ảnh “ngăn sông cách núi” biểu trưng cho sự khó khăn, trở ngại trên đường đời. “Lòng người ngại núi e sông” là sự nản lòng, thoái chí, ngại khó của người đời. Câu nói của Nguyễn Bá Học nêu lên một lời khuyên khá sâu sắc: Đường đời tuy khó khăn cách trở, nhưng khó khăn hơn vì lòng người thiếu nghị lực, ngại khó khăn. Đường đi khó. Đó là một sự thật hiển nhiên. Đường đi có muôn vàn khó khăn. Quan sơn muôn dặm. Có bao đèo cao, núi cao, sông sâu, thác dữ, vực thẳm. Phải vượt qua nghìn dặm đường xa, nắng lửa mưa chan, bão tố, tuyết đóng băng đầy trời, cái rét cắt da cắt thịt mùa đông, cái nóng như lửa nung mùa hè. Đói khát phải trải qua, ốm đau, chùn chân mỏi gối phải chịu đựng. Còn thú dữ, còn lũ cướp đường, v.v... Quả là đường đi khó. Lý Bạch đời Đường (Trung Quốc) có bài thơ "Hành lộ nan" (Đường khó đi) và bài "Thục lộ nan" (Đường xứ Thục khó đi). Bài trước, Thi tiên viết: "Băng đầy sông, khó nỗi vượt Hoàng Hà Tuyết mù trời, không đường lên Thái Hàng". (Hoàng Tạo dịch) Bài sau, Thi Tiên lại chỉ rõ: "Đường Thục đi khó, khó hơn đường lên trời! (...) Đất sụt, núi lở, tráng sĩ chết (...) Sớm lánh cọp dữ Tối lánh rắn dài
Mài nanh, liếm máu, Giết người như chặt gai..." (Ngô Tất Tố dịch) Giữa thế kỉ XIX, Cao Bá Quát viết bài thơ "Sa hành đoản ca" (Bài ca ngắn đi trên bãi cát), người đọc cảm thấy đầy lệ rơi và tiếng thở dài hắt ra. Con đường mưu sinh đã khó, con đường danh lợi càng khó khăn hơn. "Ngục trung tập kí" của Hồ Chí Minh cũng có bài thơ "Tẩu lộ" (đi đường) nói lên cái gian khổ trong muôn nghìn cái khó: "Đi đường mới biết gian lao, Núi cao rồi lại núi cao trập trùng". (Nam Trân dịch) Cái khó đi đường đối với người chiến sĩ cách mạng là bị tù đày, bị quân thù hãm hại, bắn giết; tính mạng nghìn cân treo sợi tóc; phải nếm trải bao cay đắng tủi nhục trên đường đi đày: "Năm mươi ba cây số một ngày, áo mũ dầm mưa rách hết giày; Lại khổ thâu đêm không chỗ ngủ Ngồi trên hố xí đợi ngày mai". (Mới đến nhà lao Thiên Bảo) Trở lại câu nói của Nguyễn Bá Học, sau khi chỉ rõ "đường đi khó", ông dùng lời phủ định "không khó vì ngăn sông cách núi" để khẳng định một sự thật "mà khó vì lòng người ngại núi e sông". Cái khó "ngăn sông cách núi" là cái thử thách khó khăn khách quan, con người có thể vượt qua được. Cái khó chủ quan lúc đi đường là "lòng người ngại núi e sông". Ông đã sử dụng biện pháp phân hợp ngôn ngữ để làm nổi bật tư tưởng thoái chí nản lòng của người đi đường. Không viết "lòng người e ngại núi sông" mà lại viết "lòng người ngại núi e sông", đó là một dụng ý khá thâm thuý. Không có quyết tâm cao, không có chí khí ngoan cường sao có thể khắc phục được mọi khó khăn trên đường đi, trên đường đời. Nếu nản lòng, thoái chí, nếu sợ vất vả gian khổ thì sao có thể đi đường và đến đích được? Con đường đời, con đường mưu sinh có muôn vàn cái khó, đúng là "khó vì lòng người ngại núi e sông". Qua câu nói, nhà giáo Nguyễn Bá Hạc vừa chỉ cho học trò không nên ngại khó ngại khổ mà phải rèn luyện chí khí quyết tâm trong học hành, trong mưu sinh trên đường đời. Tác giả có một lối nói nhẹ nhàng, giàu hình ảnh và tương phản, nên lời khuyên, bài học đạo lí càng trở nên sâu xa, thấm thía. Nhắc lại câu nói trên đây của Nguyễn Bá Học, tuổi trẻ chúng ta lại nhớ đến bài thơ "Khuyên thanh niên" của Bác Hồ kính yêu: "Không có việc gì khó Chỉ sợ lòng không bền. Đào núi và lấp biển, Quyết chí ắt làm nên". Bài học đi đường, bài học về lòng quyết tâm, rèn luyện ý chí, nghị lực đối với học sinh chúng ta thật vô cùng quan trọng, lúc nào cũng mới mẻ và giàu ý nghĩa. bài số 4 Luyện tập tóm tắt văn bản nghị luận 1. Đọc, đánh dấu những câu mang ý chính trong bài "Khoảnh khắc truyện ngắn" của Bùi Hiển dưới đây và viết thành bản tóm tắt khoảng 20 dòng.Tóm tắt
Truyện ngắn có tình tiết hay không? Truyện ngắn cần có cốt truyện rành mạch thì thường dễ đọc, dễ theo dõi, ý nghĩa rõ, dễ nhớ. Có truyện ngắn chỉ nói lên một tâm trạng, tâm tình, ít sự việc, không có sự cố vẫn vang vọng vào tâm hồn người đọc rất lâu. Phải chăng truyện ngắn là một truyện dài "dồn nén" lại. Tôi đồng tình với cách định nghĩa: truyện ngắn là "một đoạn trong cả bài thơ dài vô tận của số phận nhân loại", là "một chương rút ra trong truyện dài". Người viết phải lựa chọn thật xác đáng và "đắc địa" các đoạn, các chương, các khoảnh khắc ấy. Truyện "Ngựa người và người ngựa" ghi lại cảnh bác lái xe và cô gái giang hồ gặp gỡ tình cờ trong thời khắc cuối năm trước giao thừa. Họ tưởng có thể nương tựa vào nhau kiếm thêm chút tiền nuôi sống, nào ngờ cái vận khốn đeo đuổi họ đến cùng. Truyện"Đôi mắt" của Nam Cao nói về nhà văn Hoàng đi tản cư về nông thôn thời kì đầu chống Pháp. Qua mấy lời hầu như độc thoại nhận xét về người nông dân, về thời cuộc, qua cảnh sinh hoạt gia đình,... tất cả đã phơi bày bản chất một kiểu người tiểu tư sản thiểu kiến, cố chấp, bảo thủ, vị kỉ và cơ hội; khoảnh khắc được chọn đã làm phát lộ ở nhân vật Hoàng mọi khía cạnh tư tưởng. Với anh ta thì không hề có cách mạng và kháng chiến, quá khứ vẫn đè nặng lên tâm trí anh ta... Truyện ngắn phải có khoảnh khắc, "khoảnh khắc cốt yếu", hoàn cảnh nhất định để nhân vật bộc lộ rõ rệt nhất nhân cách của mình. Người cầm bút thường có ý thức lựa chọn thời điểm, khoảnh khắc cho truyện. ở khâu thể hiện là vốn sống, nhãn quan nhạy bén, tư tưởng vững vàng để lựa chọn vừa mang tính hợp lí, vừa có ý kiến rõ ràng, cô động, khám phá. 2. Tóm tắt bài "Thương tiếc nhà văn Nguyên Hồng" của Nguyễn Đăng Mạnh thành văn bản khoảng 20 dòng.Tóm tắt
Nhà văn Nguyên Hồng vừa có tài, vừa có tâm, nhất là tâm. Từ tác phẩm đầu tay, truyện Linh hồn đến tiểu thuyết "Cửa biển" đều toát lên một chủ đề: lòng nhân đạo thống thiết, mãnh liệt. Nguyên Hồng đã dành những tình cảm thống thiết đối với thân phận người dân cùng ngày trước, tỏ hết niềm tin mãnh liệt đối với "thiện căn" bền vững của nhân dân lao động. Những Tám Bính, mẹ La... với bản chất hồn hậu, xuyên thủng lớp bùn đất dày đặc để nhô lên đón lấy ánh sáng mặt trời. Nguyên Hồng có một số nét tương đồng với Go-rơ-ki. Hai người viết về lưu manh, thợ thuyền, xây dựng được nhiều hình tượng bà mẹ rất đẹp, dẫn đầu trong việc ca ngợi lao động, phát hiện ở lao động một đối tượng thẩm mĩ thật sự. Văn Nguyên Hồng luyện bằng than bụi nhà máy, những bến tàu, bằng sỏi đá những đồi cỏ khô cháy... Nguyên Hồng hiện lên như một tấm gương rất đẹp về sự gắn bó chặt chẽ giữa nghệ thuật và lao động. Nguyên Hồng có tài tả nắng. Tâm hồn ông đầy ánh sáng và ánh nắng. ánh nắng tưng bừng náo nhiệt của thành phố Hải Phòng rực rỡ màu phượng vĩ; ánh nắng làm cho cảnh vật nở nang, tươi tốt, tràn đầy sức sống; ánh nắng xua tan tử khí của nhân vật ông già nghèo khổ trong truyện "Hơi thở tàn". Lí tưởng cách mạng, bản tính yêu đời, yêu sống của nhân dân lao động đã tạo nên một chủ nghĩa lạc quan vửng khoẻ trong tác phẩm Nguyên Hồng. Nguyên Hồng đã có 46 năm cầm bút liên tục, không vơi cạn. Không ai thay thế được Nguyên Hồng, để dựng lên bức tranh quy mô, hoành tráng, sôi sục của thành phố Hải Phòng những năm bốn mươi đầy biến động của lịch sử dân tộc? Không ai vẽ nổi như Nguyên Hồng chân dung những lão La, mẹ La, Gái Đen, cụ Cam, cụ ước, v.v... Nguyên Hồng không có những kiệt tác hoàn chỉnh, nhưng có những trang viết đáng gọi là kiệt tác. Nguyên Hồng có năng khiếu của một nhà văn lớn như Xuân Diệu đã nói. Ông viết không có lúc nào xuống tay hẳn. Ông chết quá đột ngột khi tập hai bộ tiểu thuyết "Núi rừng Yên Thế" chưa ráo mực. Nguyên Hồng là con người rất dễ xúc động, rất dễ khóc. Ông đã sống hơn sáu mươi năm, đã viết hơn bốn mươi năm, ai biết được ông đã đổ ra bao nhiêu nước mắt cho đời và cho nghệ thuật? (Sưu tầm)
|
|